Sáng 25/7, nhân kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2025) những người con Yên Thành sống tại các tỉnh phía Nam đã đến viếng anh linh hương hồn Anh hùng Liệt sĩ Phan Đăng Lưu và Nguyễn Kiệm tại Nghĩa trang Liệt sĩ TP.HCM do Thiếu tướng Nguyễn Hồng Trường, Chủ tịch Hội đồng hương Yên Thành khu vực phía Nam làm trưởng đoàn.
Tham gia đoàn còn có đại diện cho gia đình, dòng họ, HĐH xã Yên Thành, HĐH Yên Thành KVPN, Trường PTTH Phan Đăng Lưu…
Trong không khí trang nghiêm, xúc động, những người con Yên Thành đã kính cẩn nghiêng mình, dành một phút mặc niệm tưởng nhớ đến các anh hùng liệt sĩ đã không tiếc máu xương, chiến đấu quả cảm, hy sinh vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự nghiệp thống nhất đất nước.
Nghĩa trang Liệt sĩ TP.HCM là nơi quy tập hơn 14.000 Anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, có nhiều mộ phần của các Anh hùng liệt sĩ nổi tiếng như: Quách Thị Trang, Trần Văn Ơn, Lê Văn Sĩ, Võ Văn Tần, Phạm Ngọc Thảo, Lý Chính Thắng… Đặc biệt có các đồng chí Nguyễn Kiệm và Phan Đăng Lưu là hai Anh hùng Liệt sĩ tấm gương người cộng sản trung kiên là những người con của quê lúa Yên Thành.
Đồng chí Phan Đăng Lưu sinh ngày 5/5/1902 ở thôn Đông, xã Tràng Thành (xã Hoa Thành, Yên Thành cũ), nay là xã Yên Thành, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nho học, có truyền thống yêu nước. Ông nội là Phan Đăng Định, một nhà nho nghèo làm nghề phong thủy và bốc thuộc chữa bệnh, cả đời chỉ tâm niệm tiết tháo nhà nho, nhân hậu cứu giúp mọi người.
Ông ngoại là cụ cử (cử nhân) Trần Danh Tiêu – nổi tiếng hay chữ và có nhiều đóng góp cho các cuộc khởi nghĩa của các lãnh tụ văn thân tại quê nhà. Cha anh là ông Phan Đăng Dư, một nhà nho yêu nước. Ông đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa chống Pháp do cụ Chu Trạc, một cử nhân võ trang trong làng (Tràng Thành) chỉ huy. Mẹ là Trần Thị Liễu, một người thông minh, có học chữ Nho, yêu chồng, thương con và chăm lo việc gia đình. Phan Đăng Lưu là con trai cả trong gia đình. Từ thuở ấu thơ, Phan Đăng Lưu đã được mẹ kể cho nghe về các anh hùng, các chí sĩ cứu nước, gợi lên trong tâm trí anh những hình ảnh đẹp đẽ và tự hào về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, của quê hương. Không những thường xuyên hun đúc tinh thần yêu nước, chí khí quật cường cho Phan Đăng Lưu, bà còn tìm mọi cách ủng hộ và giúp đỡ anh theo khuynh hướng tân học.
Tuổi thiếu thời của Phan Đăng Lưu được nuôi dưỡng bởi những truyền thống tốt đẹp trong suốt quá trình đấu tranh gây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Đó là truyền thống đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau bảo vệ quê hương, đất nước, con người cần cù, sáng tạo và anh dũng bất khuất trong lao động sản xuất, chống giặc ngoại xâm; uống nước nhớ nguồn, yêu chuộng hòa bình; hiếu học, tôn sư trọng đạo,… Những truyền thống tốt đẹp đó gắn liền với những tấm gương oanh liệt của các bậc anh hùng, nghĩa sĩ của quê hương trong những phong trào đấu tranh, khởi nghĩa chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai như Nguyễn Xuan Ôn, Lê Doãn Nhã, Lãnh Ngợi, Đốc Quyền… Truyền thống tốt đẹp của gia đình và quê hương đã góp phần hình thành nhân cách một chiến sĩ cộng sản mẫu mực, kiên cường Phan Đăng Lưu.
Nguyễn Kiệm dòng họ Nguyễn Duy sinh năm 1916 tại xóm Hóp, làng Công Trung, tổng Quan Hoá, huyện Đông Thành (xã Văn Thành, huyện Yên Thành cũ – nay là xã Yên Thành, tỉnh Nghệ An).
Ông sinh trưởng trong một gia đình Nho giáo, từ nhỏ ông được hưởng một nền giáo dục cơ bản Hán học tại gia, sau đó học chữ Quốc ngữ ở Trường Tiểu học Pháp-Việt Yên Thành và đậu bằng Prime. Mặc dù gia đình không dư dả, nhưng ông vẫn được cha mẹ gom góp đến ông tiếp tục học bậc Trung học tại Trường Quốc học Vinh.
Thời gian học tại trường Quốc học Vinh, chịu ảnh hưởng của người anh rể là Phan Đăng Hoán, một đảng viên Tân Việt, đồng thời cũng là anh em thúc bá của nhà cách mạng Phan Đăng Lưu ông bắt đầu tham gia vào phong trào đấu tranh dân chủ khi mới 15 tuổi.
Năm 1930, nổ ra phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, Trường Quốc học Vinh tạm đóng cửa, ông về quê giúp cha và anh mở hiệu thuốc bắc Nam Đồng Ích tại chợ Dinh, được ông dùng làm cơ sở liên lạc cách mạng. Thời gian này ông lập gia đình. Năm 1936, ông cùng anh rể Phan Đăng Hoán và một số người bạn vào Vinh mở Trường tư thục Hoan Châu học liệu vừa tổ chức dạy học, vừa tham gia các hoạt động của Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Thông qua các sách báo công khai và nhất là thông qua sự thuật lại của những người thân quen, Nguyễn Kiệm rất khâm phục tài năng và đức độ của Phan Đăng Lưu. Đầu năm 1938, thông qua người anh rể, ông đã gặp gỡ và tiếp xúc với nhà cách mạng Phan Đăng Lưu nhân lúc Phan Đăng Lưu về Nghệ An để vận động cho cuộc đấu tranh ở Viện dân biểu Trung Kỳ. Cuộc gặp gỡ này đánh dấu quyết định thoát ly gia đình làm cách mạng của ông.
Cuối năm 1939, ông thoát ly gia đình, bỏ lại cha mẹ vợ con để đi làm cách mạng. Năm 1940, ông vào Sài Gòn hoạt động với vai trò một ký giả, tham gia vào Ban chỉ đạo Hội Cứu tế thành phố, là thành viên Ban thư ký Đoàn Thanh niên Cứu quốc. Thời gian này, ông lấy bí danh là Nguyễn Liễu (tên người con trai của ông) và khai sinh trong giấy căn cước là năm 1912. Đây chính là lý do hầu hết các tài liệu sau này đều ghi năm sinh ông là 1912.
Năm 1942, ông về quê xin cha mẹ cho đưa vợ con vào Sài Gòn làm ăn. Trở lại Sài Gòn, ông hoạt động công khai với tư cách là một nhà thầu khoán xây dựng.
Năm 1945, Cách mạng tháng 8 bùng nổ, ông tham gia giành chính quyền ở vùng trung tâm thành phố. Khi quân Pháp tái chiếm Nam Bộ, ông hoạt động trong các nghiệp đoàn để bí mật xây dựng cơ sở. Năm 1948, ông được bầu làm Khu ủy viên Đặc khu Sài Gòn – Gia Định. Năm 1949, ông được bầu vào Ban Thường vụ Khu ủy, trực tiếp làm Phó Bí thư, phụ trách cơ sở nội thành. Ngoài ra, ông còn là Ủy viên Ban chấp hành liên hiệp Công đoàn Nam Bộ, Ủy viên thường vụ Liên hiệp Công đoàn Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định.
Cuối năm 1950, ông được cử tham gia đoàn đại biểu Nam Bộ ra dự Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 2 tại Việt Bắc, được phân công chuẩn bị báo cáo của Đặc khu tại Đại hội.
Đến năm 1951 do có chỉ điểm, trên đường từ thành phố vào khu căn cứ Củ Chi, ông bị chính quyền thực dân Pháp phục kích bắt giữ và hy sinh.
Năm 1999 ông được nhà nước Việt Nam truy tặng huân chương Hồ Chí Minh.
Thiếu tướng Nguyễn Hồng Trường, Chủ tịch Hội đồng hương Yên Thành KVPN thay mặt những người con Yên Thành, Nghệ An tri ân các Anh hùng Liệt sĩ, bày tỏ, lòng biết ơn sâu sắc của những người con Yên Thành sống xa quê vẫn không được lãng quên lịch sử và những đóng góp to lớn của các anh hùng liệt sĩ, Mẹ Việt Nam Anh hùng, Mẹ Liệt sĩ.
Biết ơn thế hệ cha anh, thừa kế truyền thống kiên cường của các thế hệ anh hùng liệt sĩ, đồng thời sẽ nỗ lực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cùng nhau đoàn kết xây dựng cho quê hương và bảo vệ Tổ quốc.